Lực lượng và bố trí Trận_chiến_nước_Pháp

Quân đội Đức Quốc xã

Bố trí lực lượng và ý đồ tiến quân của hai bên.

Lực lượng

Đức đã động viên được 4.200.000 người cho lục quân (Heer), 1.000.000 cho không quân (Luftwaffe), 180.000 cho hải quân (Kriegsmarine), và 100.000 cho lực lượng Waffen-SS. Do từ năm 1919 chế độ cưỡng bức tòng quân không được thực hiện theo điều khoản của hòa ước Versailles (bị chính phủ Đức bác bỏ từ năm 1935) nên trong các năm 1939–1940, Đức có 45% quân số đã 40 tuổi trở lên, 50% binh lính mới chỉ qua vài tuần lễ huấn luyện[90] và thường được trang bị nghèo nàn hơn nhiều so với Pháp và Anh, thậm chí là chỉ ngang bằng mức trang bị của quân Đức năm 1914.[91] Vào mùa xuân năm 1940, quân đội Đức vẫn đang trong tình trạng bán hiện đại.[91] Có một số lượng nhỏ các sư đoàn tinh nhuệ được trang bị tốt nhất đã bù đắp lại nhiều sư đoàn hạng hai và hạng ba.[91]

Không tính đến các bộ phận tại Ba Lan, Đan Mạch và Na Uy, lục quân Đức có tổng cộng 3.000.000 người phục vụ cho cuộc tấn công ngày 10 tháng 5 năm 1940.[92] Lực lượng này được tổ chức thành 157 sư đoàn. Trong đó, 135 sư đoàn được dùng cho việc tấn công, 42 sư đoàn làm dự bị.[93] Hitler cảm thấy đủ tự tin vào cuộc liên minh với Stalin nên chỉ để lại 7 sư đoàn tại biên giới phía đông của đế chế Đức Quốc xã.[94]

Trong tháng 5 và tháng 6, quân Đức đã triển khai ở phía tây 2.439 xe tăng (bao gồm 523 Panzer I, 955 Panzer II, 349 Panzer III, 278 Panzer IV, 106 Panzer 35(t) và 228 Panzer 38(t)) và 7.378 khẩu pháo cùng đạn dược dự trữ đủ cung cấp cho 6 tuần lễ tấn công.[95] Chỉ có 10% lục quân Đức được cơ giới hóa trong năm 1940 và chỉ có thể tập hợp được 120.000 xe cộ so với con số 300.000 của Pháp. Người Anh cũng có một lực lượng cơ giới "đáng ganh tỵ" so với Đức.[90] Hầu hết đoàn xe hậu cần của Đức vẫn là xe ngựa kéo.[96]

Bố trí

Quân đội Đức chia làm 3 cụm quân:

  • Cụm Tập đoàn quân A do Gerd von Rundstedt chỉ huy, có 45½ sư đoàn, trong đó có 7 sư đoàn thiết giáp và 3 sư đoàn bộ binh cơ giới,[44] đóng vai trò chủ công của mũi thọc sâu lưỡi hái[ct 7]. Bao gồm 3 tập đoàn quân: Tập đoàn quân số 4, số 12 và số 16. Có 3 quân đoàn thiết giáp: Quân đoàn Panzer 15 được giao cho Tập đoàn quân số 4, 2 quân đoàn khác (Quân đoàn Panzer 41 của tướng Reinhardt và Quân đoàn Panzer 19 của tướng Guderian) được hợp nhất với Quân đoàn 14 (có 2 sư đoàn bộ binh cơ giới) thành một lực lượng tác chiến độc lập đặc biệt gọi là "Cụm Panzer Kleist" (Panzergruppe Kleist - tên chính thức là Quân đoàn 22).[44][98]
  • Cụm Tập đoàn quân B do Fedor von Bock chỉ huy, có 29½ sư đoàn, gồm Tập đoàn quân số 6 (có 2 sư đoàn thiết giáp) và số 18 (có 1 sư đoàn thiết giáp), với nhiệm vụ tiến qua Vùng Đất Thấp và dụ chủ lực Đồng Minh tiến lên nghênh chiến.[99]
  • Cụm Tập đoàn quân C, do Wilhelm Ritter von Leeb chỉ huy, có 18 sư đoàn, bao gồm 2 Tập đoàn quân số 1 và 7, chịu trách nhiệm đề phòng một đòn bọc sườn từ phía đông và tiến hành hộ công vào phòng tuyến Maginot và thượng nguồn sông Rhine từ phía đông.[99]

Thông tin liên lạc

Lá chủ bài thực sự của người Đức chính là hệ thống radio.[100] Tất cả các xe tăng Panzer đều có trang bị radio, cho phép họ liên lạc truyền thông với các đơn vị khác. Điều này giúp quân thiết giáp Đức phản ứng rất nhanh với những biến đổi liên tục của tình hình chiến trường. Nó cho phép có những thay đổi vào phút cuối về chiến thuật và giúp ứng biến nhanh hơn nhiều so với đối phương. Một số chỉ huy đã xem khả năng liên lạc là phương thức chiến đấu căn bản.[100] Sự chặt chẽ của radio thậm chí còn được coi là quan trọng hơn cả bắn chính xác.[100] Thông tin liên lạc cho phép xe tăng Đức phối hợp với cả đội hình của mình, để cùng tạo nên hỏa lực hiệu quả lớn trong tấn công và phòng thủ. Điều này đã bù đắp lại bất lợi của Đức về số lượng và trang bị so với lực lượng thiết giáp được triển khai rải rác như một vũ khí yểm trợ đơn lẻ của Pháp. Người Pháp cũng không có radio và các mệnh lệnh vẫn phải truyền miệng. Tất cả những điều này đã tạo cho quân Đức một ưu thế quyết định trong cuộc chiến.[100]

Hệ thống radio đã vượt ra khỏi giới hạn giữa các xe tăng. Nó còn cho phép thiết liên lạc giữa các lực lượng trên không và dưới đất. Gắn liền với các sư đoàn Panzer là lực lượng Fliegerleittrupp (quân kiểm soát đường không chiến thuật) được giao cho các loại xe có bánh.[100] Vì có quá ít xe chỉ huy Sd.Kfz. 251 nên nó không thể trở thành một cơ sở thống nhất cho cả quân đội, nhưng về lý thuyết vẫn cho phép lục quân trong một số trường hợp có thể gọi thẳng lên các đơn vị của Luftwaffe lúc đang tiếp đất hay cất cánh nhằm kêu gọi hỗ trợ bằng các đòn tấn công mà pháo binh không thể đáp ứng được. Trong cuộc tiến quân ra eo biển, quân đoàn của Guderian được cho là chưa bao giờ phải đợi quá 15–20 phút sau khi yêu cầu, là không quân Đức đã xuất hiện ở phía trên mục tiêu.[100] Một lực lượng máy bay Junkers Ju 87 đặc biệt, Quân đoàn Không quân số 8 Đức (VIII. Fliegerkorps), chịu trách nhiệm hỗ trợ cuộc tiến quân ra biển của Cụm Tập đoàn quân A, đã bố trí một nhóm Ju 87 và một nhóm tiêm kích luôn luôn sẵn sàng để cất cánh ngay lập tức, và có thể đến nơi hỗ trợ cho các đơn vị thiết giáp trong thời gian trung bình từ 45 đến 75 phút kể từ lúc mệnh lệnh được ban hành.[101]

Chiến thuật lục quân

Vũ khí chính của các lực lượng trên bộ của Đức là kiểu chiến đấu hiệp đồng binh chủng. Trái ngược với phe Đồng Minh, họ dựa vào các đơn vị tấn công có tính cơ động cao, với số lượng cân bằng giữa các đội hình pháo binh, bộ binh, công binh và xe tăng đã qua huấn luyện bài bản, tất cả kết hợp trong những sư đoàn Panzer. Họ cũng dựa vào hệ thống liên lạc tuyệt vời cho phép đột nhập vào một vị trí và khai thác nó trước khi đối phương kịp phản ứng. Các sư đoàn Panzer có thể tiến hành nhiệm vụ trinh sát, hành quân bắt liên lạc, phòng thủ và tấn công các vị trí quan trọng hay các điểm yếu. Các vị trí này sau đó sẽ được bộ binh và pháo binh nắm giữ để làm bàn đạp cho các cuộc tấn công tiếp theo. Mặc dù xe tăng của Đức không được thiết kế để phục vụ cho các trận chiến tăng đấu tăng, chúng có thể chiếm giữ trận địa và đẩy quân thiết giáp đối phương vào các phòng tuyến chống tăng của các sư đoàn. Điều này giúp bảo toàn lực lượng xe tăng để có thể tiến hành các bước tấn công tiếp theo. Hậu cần của các đơn vị này là tự túc, đủ cho 3 đến 4 ngày chiến đấu. Các sư đoàn Panzer sẽ được hỗ trợ bằng các sư đoàn bộ binh và cơ giới.[102]

Lục quân Đức không có được loại xe tăng chiến đấu hạng nặng ghê gớm như Char B1 của Pháp. Xét theo trang bị vũ khí và lớp giáp, các xe tăng của Pháp đều trội hơn cả về thiết kế lẫn số lượng (mặc dù các xe cộ của Đức nhanh hơn và đáng tin cậy hơn về mặt máy móc).[103][104] Nhưng dù bị áp đảo về số lượng pháo binh và xe tăng, lục quân Đức lại có được một số lợi thế quan trọng so với đối thủ. Mỗi tổ lái xe tăng Panzer có năm người; gồm 1 chỉ huy, 1 xạ thủ, 1 người nạp đạn, 1 lái xe và 1 thợ máy.[100] Mỗi người được đào tạo một kiểu riêng biệt theo chuyên môn, cho phép họ tập trung vào nhiệm vụ của mình tạo nên một tổ chiến đấu hiệu quả cao. Tổ lái của Pháp có ít người hơn, và viên chỉ huy kiêm luôn nhiệm vụ nạp đạn cho khẩu súng lớn. Điều này làm cho anh ta bị phân tán khỏi nhiệm vụ chính của mình là quan sát và triển khai chiến thuật, khiến cho việc chiến đấu kém hiệu quả hơn nhiều so với Đức.[100]

Ngay cả trong các đội hình bộ binh, người Đức cũng có ưu thế với học thuyết Auftragstaktik (nhiệm vụ chiến thuật), theo đó các sĩ quan được quyền chủ động sử dụng óc sáng tạo của mình nhằm đạt được ý định của cấp chỉ huy, và được quyền kiểm soát những vũ khí hỗ trợ cần thiết; ví dụ: một trung đoàn bộ binh Đức có 12 khẩu pháo bộ binh hạng nặng 150 ly. Trong khi ấy thì các đội hình của Anh dựa trên cơ cấu mệnh lệnh tập trung, và các sĩ quan phải gọi về tổng hành dinh pháo binh của sư đoàn để xin hỗ trợ hỏa lực.[105] Cách kiểm soát tập trung này giúp người Anh có lợi thế trong các hoạt động dàn quân chính thức, nhưng lại gây bất lợi trong những tình huống chiến thuật thay đổi nhanh chóng đòi hỏi tính ứng biến.[106]

Không quân

Không quân Đức (Luftwaffe) chia lực lượng 2 cụm: 1.815 máy bay chiến đấu, 487 máy bay vận tải và 50 tàu lượn phối hợp với Cụm Tập đoàn quân B, 3.286 máy bay chiến đấu khác hỗ trợ Cụm Tập đoàn quân A và C.

Nhiệm vụ chính của không quân Đức là tiến hành yểm trợ bám sát mặt đất bằng các máy bay ném bom bổ nhào và máy bay ném bom hạng trung. Vào năm 1940, ngoại trừ một bộ phận nguồn lực vẫn phải sử dụng rộng rãi để phục vụ cho chiến lược quốc gia, thì Luftwaffe là một lực lượng đại thể căn bản không có học thuyết chủ đạo chặt chẽ. Nó rất linh hoạt và có thể thực hiện hiệu quả cả hoạt động ném bom tác chiến, chiến thuật lẫn chiến lược. Linh hoạt chính là sức mạnh của Luftwaffe trong năm 1940. Trong khi không lực Đồng Minh trong năm đó bị trói buộc vào nhiệm vụ yểm trợ cho lục quân, thì Luftwaffe triển khai nguồn lực của mình theo nhiều hướng hoạt động hơn, từ các nhiệm vụ chiếm ưu thế trên không sang việc đánh phá ngăn chặn địch ở tầm trung, từ các đòn đánh chiến lược cho đến nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp tùy thuộc vào yêu cầu của các lực lượng trên chiến trường. Trong thực tế, Luftwaffe chưa phải là một vũ khí xung kích chuyên dụng cho quân thiết giáp, và chỉ có không đến 15% lực lượng của nó được bố trí để chi viện trực tiếp lục quân trong năm 1939,[107] vì đó không phải nhiệm vụ chính của nó.[108]

Phòng không

Người ta thường cho rằng Đức còn có lợi thế lớn so với Đồng Minh về hỏa lực phòng không. Nhưng trên thực tế, số liệu trích dẫn thường thấy về 2.600 khẩu pháo phòng không 88 ly hạng nặng cùng 6.700 khẩu 37 ly20 ly hạng nhẹ có vẻ như đề cập đến tổng số thống kê của toàn bộ lực lượng vũ trang Đức, tức là bao gồm cả hệ thống phòng không tại các thành phố và cảng biển của Đức, cũng như trang bị trong các đơn vị huấn luyện. Một bộ phận 9.300 khẩu pháo trên chiến trường sẽ đòi hỏi quân số tương ứng còn đông hơn cả toàn bộ Lực lượng Viễn chinh Anh. Số pháo phòng không thực tế dành cho các lực lượng tấn công là 85 khẩu đội pháo hạng nặng và 18 khẩu đội pháo hạng nhẹ trực thuộc Luftwaffe, 48 "đại đội" pháo hạng nhẹ không thể thiếu đối với các sư đoàn lục quân, và 20 "đại đội" pháo hạng nhẹ được phân phối cho các đội quân làm lực lượng dự bị sẵn có dưới quyền các tổng hành dinh trên cấp quân đoàn: tất cả khoảng 700 pháo 88 ly và 180 pháo 37 ly được cung cấp bởi các đơn vị mặt đất của Luftwaffe và 816 pháo 20 ly được cung cấp bởi lục quân.[109]

Quân đội Đồng Minh

Lực lượng

Tướng Pháp Alphonse Georges xem xét khẩu pháo 8 inch của Anh.

Nước Pháp đã huy động một tỷ lệ GNP của mình trong các năm 1918-1935 vào lĩnh vực quân sự nhiều hơn so với các cường quốc khác, và chính phủ Pháp đã bắt đầu một nỗ lực tái vũ trang lớn quy mô lớn vào năm 1936.[110] Do tỉ lệ sinh đẻ thấp, dân số lại suy giảm trong chiến tranh thế giới thứ nhất và trong cuộc Đại suy thoái, nước Pháp lâm vào tình trạng thiếu nhân lực trầm trọng trong khi dân số chỉ bằng một nửa nước Đức. Bù lại, Pháp đã huy động được khoảng 1/3 dân số nam giới trong độ tuổi từ 20 đến 45, nâng tổng số lực lượng vũ trang lên đến 5.000.000 người.[111] Nhưng trong đó chỉ có 2.240.000 phục vụ trong các đơn vị quân đội ở phía bắc. Người Anh đóng góp tổng cộng 897.000 quân trong năm 1939, và tăng lên 1.650.000 vào tháng 6 năm 1940, nhưng trong tháng 5 chỉ có 500.000 người, kể cả dự bị. Nguồn nhân lực của Hà Lan và Bỉ ước tính lần lượt là 400.000 và 650.000 người.[92]

Lục quân

Quân lính Anh mới tới nơi đang di chuyển ra mặt trận, tháng 5 năm 1940

Pháp có tổng cộng 117 sư đoàn, trong đó 104 sư đoàn (bao gồm 11 là dự bị) được bố trí phòng thủ ở phía bắc. Lục quân Anh chỉ đóng góp 13 sư đoàn, 3 trong số đó vẫn chưa được tổ chức khi chiến dịch bắt đầu. Khoảng 22 sư đoàn Bỉ và 10 sư đoàn Hà Lan và 2 sư đoàn Ba Lan cũng góp phần vào binh lực phe Đồng Minh. Lục quân Pháp được cơ giới hóa nhiều hơn đối phương (người Đức vẫn phụ thuộc nhiều vào sức ngựa kéo).[110] Mặc dù Hà Lan, Anh và Bỉ hầu như không có quân thiết giáp, nhưng Pháp lại sở hữu một lực lượng thiết giáp mạnh với 3.254 xe tăng hiện đại và pháo tự hành.[112] Ngoài ra còn có thêm 1.200 chiếc nữa lấy ra từ kho hoặc biên chế trong các đơn vị mới thành lập, chưa kể 1.500 xe tăng FT-17 đời cũ. Ưu thế lực lượng cả về số lượng và chất lượng so với Đức đã được thể hiện ở thắng lợi chiến thuật trong trận Hannut, trận tăng chiến lớn nhất của toàn chiến dịch.[110] Ngoài ưu thế xe tăng, Đồng Minh còn vượt trội về hỏa lực pháo với khoảng 14.000 khẩu,[113] nhiều hơn 45% so với Đức. Trong đó lực lượng pháo binh Pháp ước tính có 10.700 khẩu pháo, Anh có 1.280 khẩu, Bỉ 1.338 khẩu và Hà Lan 656 khẩu.[93]

Quân đội Pháp tuy có ưu thế về số lượng và sở hữu hỏa lực mạnh hơn nhưng lại có chất lượng không đồng đều. Họ có trong đội hình một số đơn vị rất mạnh, đặc biệt là các sư đoàn thiết giáp hạng nặng và hạng nhẹ (các sư đoàn thiết giáp dự bị DCR và cơ giới hạng nhẹ DLM), cùng nhiều sư đoàn bộ binh chuyên nghiệp. Tuy nhiên, cũng có nhiều sư đoàn gồm toàn lính dự bị, đã trên 30 tuổi và trang bị nghèo nàn. Một khuyết điểm nghiêm trọng về chất lượng sự thiếu hụt về pháo phòng không, pháo chống tăng và hệ thống liên lạc radio,[111] bất chấp những nỗ lực của Gamelin trong việc xây dựng các đơn vị pháo binh cơ động.[114] Trong Trận chiến nước Pháp ông ta đã sử dụng điện thoại và người tùy tùng để liên lạc với chiến trường; chỉ có 0,15% chi tiêu quân sự trong các năm 1923-1939 dùng cho radio và những thiết bị liên lạc khác.[110]

Sự triển khai chiến thuật và sử dụng các đơn vị tác chiến cơ động của Pháp cũng kém hơn so với Đức.[111] Về chiến thuật, quân thiết giáp bị dàn mỏng dọc theo phòng tuyến Pháp, các sư đoàn Pháp được yểm trợ bởi các tiểu đoàn tăng với khoảng 100 xe tăng, khiến chúng không thể tập trung thành một lực lượng mạnh độc lập về tác chiến. Tồi tệ hơn, chỉ có rất ít xe tăng Pháp trong mỗi đơn vị được trang bị radio, với chất lượng nhiều khi không đáng tin cậy, khiến cho việc liên lạc trở nên khó khăn.[111] Xe tăng Pháp cũng có tốc độ chậm hơn nhiều so với các loại tăng Panzer (ngoại trừ loại SOMUA S35), và được thiết kế để hỗ trợ bộ binh, điều này sau đó đã bù đắp những bất lợi của quân Đức bằng ưu thế chiến thuật trên chiến trường. Năm 1940, học thuyết quân sự Pháp vẫn coi xe tăng chỉ là vũ khí hỗ trợ cho bộ binh. Kết quả là, tại nhiều thời điểm của chiến dịch, quân thiết giáp Pháp không thể phản ứng nhanh kịp bằng quân thiết giáp Đức.[111]

Về mặt tác chiến, dường như người Pháp không nghĩ nhiều đến việc sử dụng các đơn vị thiết giáp như một vũ khí tấn công. Mặc dù trong những năm 1930 đã có một số chuyên gia quân sự, như đại tá Charles de Gaulle, đã cố gắng thuyết phục Bộ tư lệnh Tối cao về sự cần thiết của việc xây dựng những sư đoàn thiết giáp với sự hỗ trợ của không quân và bộ binh, nhưng chủ nghĩa bảo thủ quân sự đã ngăn cản "ý tưởng mới" này phát triển. Bộ tư lệnh Pháp vẫn tập trung vào việc phòng giữ các mặt trận rộng lớn và liên tục giống như những năm 1914-1918. Họ coi các lực lượng thiết giáp chỉ là phần thêm vào của các công sự cố định. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng là phòng thủ, để đón đầu và ngăn cản đối phương trên những địa hình không có xây đắp công sự.[114] Tình trạng đào tạo cũng không cân xứng: phần lớn các cán bộ chỉ được huấn luyện để bố trí cho các công sự cố định.[115] Có rất ít công tác đào tạo về tác chiến cơ động được tiến hành trong khoảng từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 5 năm 1940.[116]

Bố trí

Quân lính Anh tại gần Etaples, tháng 2 năm 1940

Quân đội Pháp ở phía bắc có 3 Cụm Tập đoàn quân: Cụm Tập đoàn quân số 1 của tướng Gaston-Henri Billotte, gồm 40 sư đoàn tinh nhuệ (trong đó có Lực lượng Viễn chinh Anh do Gort chỉ huy) có nhiệm vụ tiến thẳng sang Vùng Đất Thấp. Cụm Tập đoàn quân số 2 của tướng André-Gaston Prételat bao gồm 26 sư đoàn và Cụm Tập đoàn quân số 3 (đóng ở cánh nam Cụm Tập đoàn quân số 2) của tướng Antoine-Marie-Benoit Besson bao gồm 36 sư đoàn cùng phòng giữ phòng tuyến Maginot ở phía đông.[117]

Tập đoàn quân số 7, ban đầu đóng tại sườn trái gần bờ biển, được tăng cường bởi 1 sư đoàn cơ giới hạng nhẹ (Division Légère Mécanisée - DLM), dự định sẽ hành quân đến Breda - Hà Lan qua Antwerp.[118] Cạnh đó về phía nam là 9 sư đoàn Lực lượng Viễn chinh Anh (BEF), sẽ tới phòng tuyến Dyle và đóng quân cạnh sườn phải của quân Bỉ, từ Louvain đến Wavre. Tập đoàn quân số 1, được tăng viện 2 sư đoàn cơ giới hạng nhẹ và 1 sư đoàn Thiết giáp Dự bị (DCR) trong lực lượng dự bị, đến phòng thủ khe hở Gembloux nằm giữa WavreNamur. Đội quân xa nhất về phía nam tham gia tiến vào Bỉ là Tập đoàn quân số 9, kiểm soát toàn bộ quân khu Meuse nằm giữa Namur và Sedan. Lord Gort, tư lệnh BEF, đã hy vọng rằng mình sẽ có từ 2 đến 3 tuần lễ chuẩn bị trong thời gian quân Đức di chuyển 100 cây số để tới sông Dyle (nhưng thực tế quân Đức đã đến nơi chỉ sau 4 ngày).[32]:58

Tại Sedan, Tập đoàn quân số 2 trở thành "bản lề" của lực lượng di chuyển và lực lượng ở lại phòng thủ[119] và đã phải đối mặt với đòn tấn công tập trung các sư đoàn thiết giáp tinh nhuệ của Đức tại Sedan. Chỉ có 5 sư đoàn, 2 trong số đó là các đơn vị dự bị đã quá tuổi, hay gọi là các sư đoàn "hạng B", và 1 đơn vị Tây Phi đến từ Senegal, họ bị yếu thế cả về nhân lực, vũ khí phòng không, chống tăng cũng như yểm trợ trên không.[120] Phải phụ trách một mặt trận lớn hơn nhiều so với thực lực, cùng với thực trạng huấn luyện và trang bị, họ trở thành yếu điểm trong hệ thống phòng ngự của Pháp. Điều này xuất phát từ niềm tin của Bộ Tư lệnh Tối cao Pháp rằng xe tăng không thể vượt qua rừng Ardennes, mặc dù tình báo của quân đội Bỉ và của chính họ đã cảnh báo họ về những đội hình thiếp giáp và vận tải kéo dài đang băng qua Ardennes và bị tắc nghẽn giao thông nghiêm trọng trong một thời gian. André Corap, tư lệnh Tập đoàn quân số 9 đã gọi ý nghĩ rằng quân địch không thể vượt qua Ardennes là "ngu xuẩn". Thế nhưng Gamelin vẫn phớt lờ những bằng chứng này, bởi nó không phù hợp với kế hoạch chiến lược của ông ta.[121]

Không quân

Ở trên không, phe Đồng Minh bị thua kém về số lượng: Không quân Pháp (Armee de l'Air) có 1.562 máy bay, và Bộ tư lệnh Tiêm kích RAF huy động 680 chiếc, còn Bộ tư lệnh Ném bom RAF đóng góp được khoảng 392 chiếc trong các chiến dịch.[122] Nhiều loại máy bay của Đồng Minh là loại lỗi thời như Fairey Battle. Xét riêng về tiêm kích thì chỉ có loại Hawker Hurricane của Anh và Dewoitine D.520 của Pháp là có thể so sánh với Messerschmitt Bf 109 của Đức trong cùng điều kiện chiến đấu. D.520 cơ động hơn nhưng tốc độ lại hơi kém.[123][124] Thế nhưng cho đến ngày 10 tháng 5 năm 1940, mới chỉ có 36 chiếc D.520 là được điều động cho 1 phi đội duy nhất.

Xét riêng lực lượng máy bay tiêm kích, Đồng Minh có ưu thế về số lượng: 836 chiếc Bf 109 Đức phải chống lại 81 tiêm kích của Bỉ, 261 chiếc của Anh và 764 của Pháp thuộc nhiều chủng loại khác nhau; nguồn máy bay dự bị cũng lớn hơn,[125] nhưng các lực lượng này không bao giờ được sử dụng phối hợp để chống lại Không quân Đức. Ngay cả khi được tập hợp lại để tấn công, thì thường chỉ có tối đa 20-24 máy bay chiến đấu Đồng minh chọi với khoảng 40 máy bay Messerschmitt Bf 109, một đội tiêm kích điển hình của Đức. Vì bất đồng ngôn ngữ dẫn đến việc thiếu hụt sự phối hợp chặt chẽ, các máy bay Đồng minh thường xuyên phải chiến đấu riêng biệt.

Vào đầu tháng 6 năm 1940, nền công nghiệp hàng không Pháp đạt được mức sản xuất đáng kể, và ước tính số máy bay dự bị vào khoảng 2.000 chiếc. Tuy nhiên, sự thiếu hụt thường xuyên các bộ phận dự phòng đã làm tê liệt lực lượng không quân dự trữ này. Chỉ 29% số máy bay (599 chiếc) là sẵn sàng phục vụ, trong đó có 170 máy bay ném bom.[126] Khả năng bảo trì thấp đã khiến cho người Đức có ưu thế rõ rệt về số lượng máy bay ném bom hạng trung,[125] đông hơn của Pháp đến 6 lần.[110]

Mặc dù bị bất lợi nhưng Armée de l'Air đã hoạt động hiệu quả hơn nhiều so với dự kiến, tiêu diệt 916 máy bay địch trong các trận không chiến thuộc Trận chiến nước Pháp, đạt tỷ lệ tiêu diệt là 2,35:1, gần 1/3 trong số đó là do phi công Pháp bay trên những chiếc Curtiss P-36 Hawk Hoa Kỳ sản xuất gây ra, chiếm 12,6% lực lượng tiêm kích một chỗ ngồi của Pháp.[127]

Phòng không

Quân đội Pháp, ngoài 580 khẩu súng máy 13 ly được phân phát cho lực lượng quốc phòng dân sự, còn có 1.152 súng phòng không 25 ly, với 200 pháo tự động 20 ly đang trong quá trình phân phối, 688 khẩu 75 ly và 24 khẩu 90 ly - mà sau này gặp phải vấn đề về hao mòn nòng súng. Còn có 40 khẩu pháo phòng không 105 ly lỗi thời từ hồi chiến tranh thế giới thứ nhất.[128] Lực lượng Viễn chinh Anh có 10 trung đoàn pháo phòng không 94 ly, đây là loại vũ khí phòng không hạng nặng tân tiến nhất thế giới lúc đó, và 7 trung đoàn rưỡi pháo Bofors 40 ly, với 3 đến 4 khẩu đội trên mỗi trung đoàn, tương ứng với khoảng 300 khẩu pháo phòng không hạng nặng và 350 khẩu hạng nhẹ.[129] Người Bỉ cũng có 2 trung đoàn phòng không hạng nặng và đang trong quá trình làm quen với pháo Bofors 40 ly để trang bị cho các đội quân phòng không cấp sư đoàn. Hà Lan có 84 khẩu pháo phòng không 75 ly, 39 khẩu 60 ly cũ kỹ, 7 khẩu 100 ly và 232 khẩu 20 với 40 ly, cùng vài trăm súng máy phòng không Spandau M.25 lỗi thời từ hồi chiến tranh thế giới thứ nhất.[109]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận_chiến_nước_Pháp http://www.kbismarck.com/frencharmistice.html http://www.theartofbattle.com/battle-of-france-194... http://ww2history.com/experts/Robert_Citino/The_Fr... http://www.calvin.edu/academic/cas/gpa/facts01.htm http://quod.lib.umich.edu/cgi/t/text/pageviewer-id... http://mjp.univ-perp.fr/france/1940armistice.htm http://catdir.loc.gov/catdir/toc/ecip0515/20050181... http://commandantdelaubier.info/circonstances/arti... http://www.history.army.mil/books/OpArt/index.htm http://www.dtic.mil/doctrine/jel/jfq_pubs/1630.pdf